Là một di tích nằm ở tỉnh Quảng Ninh, Yên Tử hút hàng vạn lượt du khách mỗi năm.
Trăm năm tích đức tu hành
Chưa về Yên Tử, chưa thành quả tu
Núi Yên Tử xưa có nhiều tên gọi: Tượng Sơn
(Núi Voi), Bạch Vân Sơn (Núi Mây Trắng), Phù Vân Sơn (Núi Mây Nổi), Linh Sơn
(Núi Thiêng), An Tử… Trên đỉnh núi ngày nay vẫn còn lưu dấu tích kiến tạo vỏ
trái đất cách đây 10 triệu năm với bãi đá ngổn ngang thiên hình vạn trạng.
Trong lòng núi có mỏ than lớn. Sóng núi điệp trùng, rừng đại ngàn che phủ, muôn
dải núi đều chầu về Yên Tử, cây mọc chênh vênh trên vách đá, thấp thoáng tháp
chùa cổ kính rêu phong, thác đổ, suối reo…, đẹp như những bức tranh thủy mặc.
Rừng Yên Tử lưu giữ nhiều nguồn gien động vật và thực
vật: Trong 206 loài động vật có xương sống, có hơn 20 loài quý hiếm ghi danh
trong Sách đỏ Việt Nam như: Sóc bay lớn, voọc mũi hếch, ếch ang, ếch gai, thằn
lằn cá sấu…; trong số 830 loài thực vật, có 38 loài đặc hữu quý hiếm như: Táu
mật, lim xanh, lát hoa, thông tre, la hán rừng, vù hương, kim giao... Những
hàng tùng, cây đại, vườn cây người xưa trồng đã hơn bảy trăm năm. Rừng trúc bạt
ngàn, vạt mai vàng, khóm cúc hoa nở rộ... Cảnh sắc thiên nhiên thay đổi bốn
mùa.
Từ xưa, Yên Tử được coi là Cõi Tiên, Cõi Phật
- nơi con người tu thành Tiên, thành Phật. Tục truyền: Hơn hai ngàn năm trước,
thầy Yên Kỳ Sinh về núi này tu Tiên, hái lượm cây thuốc, luyện thần dược trường
sinh bất lão và chữa bệnh cứu người, khi mất đã hóa thành tượng đá, tên gọi
“thầy Yên” là “Yên Tử”.
Non Thiêng Yên Tử chính là nơi dung dưỡng tinh thần, giúp
con người hướng thiện, trở về bản tâm chân thật của chính mình. Gần một nghìn
năm qua, đây là nơi tu hành, thành đạo của của các bậc anh hào hiền lương mà
cuộc đời, sự nghiệp đã trở thành bất tử, từ Tổ Hiện Quang thời Lý (trước
năm 1220) đến các Tổ: Đạo Viên, Đại Đăng, Tiêu Diêu, Huệ Tuệ, Tam Tổ Trúc
Lâm… thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), từ Tổ Chân Nguyên thời Lê (thế kỷ XVII) đến
Ni sư Đàm Thái thời nhà Nguyễn (đầu thế kỷ XX).
Yên Tử là nơi vua Trần hiển Phật. Đức Điều
Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258 - 1308) làm vua ở tuổi 20. Sau khi tập hợp
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, hai lần (1285 và 1288) đánh thắng giặc Nguyên
Mông - đội quân hùng mạnh nhất thời ấy, Ngài thực hiện thành công các cuộc hòa
giải, xây dựng đất nước Đại Việt thịnh vượng. Từ bỏ ngôi vua ở tuổi 35, Ngài về
hành cung Vũ Lâm rồi lên Yên Tử tu khổ hạnh. Từ chức vị cao sang của nhà vua,
vua Trần trở về ngôi tôn quý của Nhà Phật. Ngài mất ở am Ngọa Vân trên dãy núi Yên
Tử. Ngôi tháp Huệ Quang trước chùa Hoa Yên thờ xá lợi của Ngài.
Yên Tử là “phúc địa” (đất phúc), “linh địa”
(đất thiêng), nơi hội tụ khí thiêng sông núi, được ghi vào điển thờ. Yên Tử lưu
giữ những giá trị cao quý về lịch sử, văn hóa, văn minh qua các thời đại. Đây
là nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, trên cơ
sở tiếp thu và kế thừa những tinh hoa của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung
Hoa; một dòng Thiền nhập thế, mang đậm bản sắc dân tộc. Thiền phái Trúc Lâm Yên
Tử chỉ ra rằng: Phật ở ngay trong Tâm mình, không phải ở đâu trên cõi trời xa
xôi, không hẹn kiếp khác. Đức Phật chỉ là Người Thầy Dẫn Đường, không phải là
thánh thần ban phước, giáng họa. Nếu để cho Tâm mình an định, sáng suốt, buông
mọi vọng niệm, tham-sân-si... để sống với bản tâm an nhiên thanh tịnh thì trí
sáng, tuệ giác phát sinh, vô minh phủi sạch, khổ đau chấm dứt, sẽ giác ngộ
thành Phật. Phật chính là mình, không phải cầu tìm ở bên ngoài. Với quan điểm
ấy, Thiền phái Trúc Lâm thực sự lấy con người làm gốc, tôn trọng và đề cao giá
trị của con người. Thiền phái Trúc Lâm là nền tảng tư tưởng và đạo đức của một
giai đoạn hoàng kim thời Trần ở Việt Nam.
Vào thời kỳ Thiền phái Trúc Lâm phát triển ở
đỉnh cao, Yên Tử bao gồm cả một vùng rộng lớn với những công trình kiến trúc
Phật giáo tiêu biểu: Long Động, Hoa Yên, Vân Tiêu (Uông Bí ngày nay), Quỳnh
Lâm, Hồ Thiên, Ngọa Vân (Đông Triều), Thanh Mai, Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương)
và những công trình khác ở vùng rừng núi phía Tây Yên Tử trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang ngày nay.
Dấu tích lịch sử văn hóa hiện tồn ở Yên Tử là hàng trăm
ngôi tháp thờ xá lợi thiền sư; hàng chục nền móng chùa, am thời Trần - Lê dưới
những ngôi chùa được trùng tu, phục dựng; hàng nghìn di vật cổ: tượng, chuông,
bia đá, ngói, gạch, sứ, sành… với những họa tiết, hoa văn, kiến trúc độc đáo,
lưu lại dấu ấn vàng son của một thời đã qua.
Yên Tử là căn cứ địa cách mạng, nơi bộ đội
luyện quân, nơi ghi dấu chiến công trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại
của Việt Nam ở thế kỷ XX.
Về Yên Tử, ta lạc vào một miền cổ tích với những huyền
thoại, truyền thuyết về Ông Vua hóa Phật, những áng thơ ca của người xưa, những
công trình mang giá trị kỷ lục thời nay: Chùa Đồng, Bảo tượng Phật Hoàng Trần
Nhân Tông, Quả cầu Như Ý báo ân Phật Tổ… Yên Tử luôn là nguồn cảm hứng vô tận
của thi, ca, nhạc, họa.
Lễ hội Yên Tử thường bắt đầu từ mùng 10 tháng
giêng. Những năm
gần đây, Yên Tử trở thành nơi du lịch văn hóa tâm linh, sinh thái, thắng cảnh,
thu hút du khách trong và ngoài nước đến thường xuyên quanh năm.
Đăng nhận xét